Đất ruộng lúa của một số vùng như vùng Đồng Tháp Mười, vùng Tứ Giác Long Xuyên, vùng Bạc Liêu, Cà Mau còn chứa nhiều phèn. Những nơi làm lúa nhiều năm, đất đã được rửa phèn nên khi trồng lúa ít bị xì phèn. Còn các vùng đất mới khai hoang gần đây, do phèn chưa được rữa hoàn toàn nên thỉnh thoảng ruộng lúa bị xì phèn làm hại cho cây lúa.
1. Tác hại của phèn
- Khi đất ruộng bị xì phèn, rễ lúa bị hại vì độ chua của phèn và các ion sắt (Fe +++) và nhôm (Al +++) bao quanh rễ làm cho rễ lúa không hấp thu được dinh dưỡng. Ngoài ra, ảnh hưởng của phèn, phân lân bị cố định nên rễ lúa không lấy được lân dù chúng ta bón đầy đủ phân lân. Khi đất bị xì phèn, ruộng lúa èo ọt, lùn, đâm chồi kém và cuối cùng cho năng suất rất kém. Ruộng lúa bị xì phèn nặng, nếu không có biện pháp quản lý đúng cách có thể lúa cho bông rất nhỏ và toàn bộ bông đều lép. Nếu phèn nhẹ hơn, lúa có thể trổ được nhưng lép nhiều và năng suất giảm nhiều.
2. Cách nhận diện lúa bị ngộ độc phèn
- Ruộng lúa bị xì phèn, lá lúa ngã màu vàng nhất là vàng trên của lá và chót lá bị cháy khô (hình 2.1 và hình 2.2). Bụi lúa lùn, đâm chồi kém. Lúc lúa trổ bông, bông lúa nhỏ. Lúc lúa vào chắc, trên bông có nhiều hạt lép, nhất là các hạt trong cậy. Đặc biệt bệnh đốm nâu phát triển mạnh trên lá lúa của ruộng lúa bị xì phèn. Bứng bụi lúa lên và rửa sạch rễ, rễ ngã màu vàng và xù xì, nếu vuốt dưới ngón tay sẽ cảm thấy nhám (hình 2.3).
3. Nguyên nhân của ngộ độc phèn
- Phần lớn đất tại Đồng bằng sông Cửu Long có tầng phèn tiềm tàng hay gọi là tầng sinh phèn. Ở vùng phù sa ngọt, tầng sinh phèn rất sâu, luôn luôn được ém trong tầng thủy cấp (tầng nước trong đất) cho nên gần như không bị xì phèn bao giờ. Tuy nhiên, đất ở vùng phèn có tầng sinh phèn ở gần mặt đất hơn, khoảng 20-30cm cách mặt đất. Nếu đất bị khô, mực thủy cấp bị rút xuống sâu dưới tầng sinh phèn, không khí theo xuống đến tầng này làm cho chất sinh phèn hoạt động và theo đất khô xì lên mặt. Chất phèn hòa với nước (nước mưa hoặc nước bươm vào) thành nước phèn. Nước phèn này chua do có độ pH thấp hơn 4. Mà khi rễ lúa gặp nước có độ chua này sẽ không hấp thu được phân đạm. Ngoài ra trong nước phèn có nhiều chất sắt (Fe++) và nhôm (Al+++) tự do, mà phần lớn là sắt. Sắt tự do bám vào rễ lúa, bị oxy có sẳn trong rễ lúa làm cho bị oxyt hóa trở thành Fe +++ cố định có màu vàng nâu và bám sát vào rễ lúa, do đó rễ lúa ngả màu vàng nâu và xù xì chứ không còn láng mướt nữa.
4. Đối phó với ngộ độc phèn
- Chất phèn là chất hòa tan trong nước cho nên chúng ta có thể dùng nước (nước mưa hoặc nước sông) để rửa phèn. Biện pháp rửa phèn là biện pháp tốt nhất để đối phó với phèn.
a) Biện pháp ngừa xì phèn
- Ở vùng phèn, vào đầu vụ cần rửa sạch phèn trước khi vào vụ lúa mới.
- Cần đánh rãnh xả phèn trong ruộng lúa. Khoảng 4 m hoặc 5 m đánh một rãnh song song nhau. Rành có chiều ngang 20cm sâu 20cm.
- Ở vùng đất phèn, nên bón phân lân Văn Điển lúc làm đất. Hoặc sau khi sạ bón phân HUMIC HỮU CƠ của Công ty Agri Bảo Mộc để hạ phèn và cải tạo đất, kích rễ lúa ra nhiều hơn.
b) Cần làm khi bị xì phèn
- Phát hiện ra lúa bị ngộ độc phèn, phải xả phèn ngay. Nếu có nước sẳn, cần khai cho nước thoát ra, chắc cho thật cạn nước, kể cả nước trong đất. Sau đó cho nước mới vào ruộng
- Ngoài ra còn có thể phun thêm sản phẩm SUPER ROOTS, sản phẩm SIÊU ĐỂ NHÁNH, HẠ PHÈN của Công ty Agri Bảo Mộc để giúp lúa đẻ nhánh mạnh, ra rễ mạnh, hạ phèn nhanh.
BÀI VIẾT: Phòng kỹ thuật Cty Agri Bảo Mộc